CHƯƠNG 10:

ĐIỀU KIỆN Ở VÀ SINH HOẠT CỦA HỘ DÂN CƯ

 

10.1. Tình trạng sở hữu nhà ở

Đa số các hộ dân cư sống trong ngôi nhà/căn hộ thuộc quyền sở hữu riêng của hộ. Tình trạng thuê/mượn nhà xuất hiện nhiều ở KVTT và địa phương có nhiều khu công nghiệp.

Kết quả TĐT cho thấy, 100% hộ của tỉnh có nhà ở; trong đó, 93,0% ngôi nhà/căn hộ thuộc sở hữu riêng của hộ. Tỷ lệ hộ có nhà riêng của tỉnh cao hơn toàn quốc và vùng ĐBSH. Tỷ lệ hộ có nhà riêng KVTT cao hơn thành thị 7,5 điểm phần trăm (tương ứng 95,0% và 87,5%). Số nhà thuê mượn tập trung chủ yếu ở thành phố Vĩnh Yên, Phúc Yên và huyện Bình Xuyên, là những nơi có nhiều hộ gia đình trẻ, hộ công nhân của các khu công nghiệp… với điều kiện kinh tế còn khó khăn, chưa đủ khả năng để sở hữu ngôi nhà của riêng mình. Điều này đã làm cho tỷ lệ nhà thuê mượn ở KVTT cao gấp 2,5 lần KVNT (tỷ lệ tương ứng là 12,1% và 4,8%). Thành phố Phúc Yên có tỷ lệ hộ sinh sống trong các ngôi nhà thuê mượn cao nhất, chiếm tới 14,0% tổng số hộ của địa phương, tiếp theo là Vĩnh Yên 12%, Bình Xuyên 7,8%. Tam Đảo đạt mức cao nhất tỉnh về tỷ lệ hộ sở hữu nhà riêng, bằng 97,9% số hộ của huyện; tiếp theo là huyện Sông Lô với 97,1%.

 

 

10.2. Phân loại nhà ở

Gần 99% hộ dân đang sống trong những ngôi nhà kiên cố hoặc bán kiên cố. Khoảng gần 47% số hộ sống trong các ngôi nhà/căn hộ có diện tích bình quân đầu người từ 30 m2/người trở lên. Diện tích nhà ở bình quân đầu người của tỉnh cao thứ hai cả nước.

Phân loại chất lượng nhà ở của hộ dân cư dựa trên thông tin về vật liệu chính của ba bộ phận cấu thành nhà ở, bao gồm cột (trụ hoặc tường chịu lực), mái và tường/bao che. Nhà ở của hộ dân cư được chia thành hai loại: Nhà kiên cố hoặc bán kiên cố, nhà thiếu kiên cố hoặc đơn sơ. Nhà kiên cố hoặc bán kiên cố là nhà có từ hai kết cấu chính trở lên được làm bằng vật liệu bền chắc; nhà thiếu kiên cố hoặc đơn sơ là nhà chỉ có một trong ba kết cấu chính hoặc không có kết cấu chính nào được làm bằng vật liệu bền chắc.

 

 

Theo kết quả TĐT ở biểu 10.2, toàn tỉnh có 98,9% hộ dân cư đang sống trong nhà kiên cố và bán kiên cố, tỷ lệ này năm 2009 là 98,8%. Tỷ lệ hộ có nhà ở thiếu kiên cố hoặc đơn sơ của tỉnh chỉ còn 1,1%, thấp hơn nhiều so cả nước (6,9%) và cao hơn một chút so với vùng ĐBSH (0,7%). Tỷ lệ nhà thiếu kiên cố hoặc đơn sơ ở KVNT là 1,4%; gấp 4,7 lần KVTT. Huyện Tam Đảo và Vĩnh Tường có tỷ lệ hộ sống trong ngôi nhà thiếu kiên cố hoặc đơn sơ cao hơn mức chung của tỉnh (chiếm 1,8% và 1,6% số hộ của địa phương). Phúc Yên có 99,8% ngôi nhà đạt tiêu chuẩn kiên cố và bán kiên cố, cao nhất trong các huyện, thành phố của tỉnh.

Toàn tỉnh có 0,3% hộ dân sống trong các căn hộ chung cư, chủ yếu là các chung cư cao tầng ở Vĩnh Yên. Cùng với sự thay đổi của đời sống xã hội, sở hữu các căn hộ chung cư đang dần trở thành lựu chọn mới, phù hợp với những gia đình trẻ, gia đình ít người và có điều kiện kinh tế ở mức trung bình.

Vĩnh Phúc hiện là tỉnh có mật độ dân số cao thứ 10 cả nước nhưng lại là tỉnh có diện tích nhà ở bình quân đầu người tương đối lớn. Diện tích nhà ở bình quân đầu người của tỉnh đạt 28,6 m2/người, cao thứ hai toàn quốc (23,2 m2/người), chỉ sau Bắc Ninh (29,6 m2/người). Điều này phản ảnh sự chú trọng về nơi ở và điều kiện sinh hoạt của người dân Vĩnh Phúc. Họ đã đầu tư mạnh cho việc xây dựng các ngôi nhà kiên cố, nhiều tầng, đảm bảo điều kiện sinh hoạt thiết thực và không gian chung cho cả gia đình. Diện tích nhà ở bình quân đầu người KVTT đạt 33,7 m2/người, cao hơn 6,8 m2/người so với KVNT. So với mức chung của cả nước thì, người dân thành thị của Vĩnh Phúc đang được sống trong những ngôi nhà có diện tích bình quân lớn hơn tới 9,2 m2/người; con số này đối với nông thôn là 4,4 m2/người.

 

 

Quan sát hình 10.1 ta thấy, địa phương có diện tích nhà ở bình quân đầu người cao nhất tỉnh là Vĩnh Yên với 37,3 m2/người, thứ hai là Phúc Yên: 29,2 m2/người, thấp nhất là Tam Đảo: 22,8 m2/người. Những con số cho thấy rằng, rõ ràng, ở khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển hơn thì điều kiện sống của người dân cũng được đảm bảo hơn. Bên cạnh những ngôi nhà một tầng truyền thống, các toà nhà cao tầng xuất hiện ngày càng nhiều tại các địa phương.

Kết quả TĐT cho thấy điểm sáng trong bức tranh về điều kiện sống của người dân Vĩnh Phúc là có 46,9% số hộ dân sống trong các ngôi nhà với diện tích bình quân đầu người từ 30 m2/người trở lên, tức là khoảng gần một nửa số hộ đang sống trong các ngôi nhà có diện tích lớn. Con số này của toàn quốc là 34,4%, vùng ĐBSH là 40,0%. Toàn tỉnh chỉ có 1,7% hộ đang sống trong các ngôi nhà có diện tích sử dụng chật hẹp, chỉ đạt dưới 8 m2/người, phần lớn trong số đó là những ngôi nhà trọ của sinh viên các trường cao đẳng, đại học và công nhân đang làm việc trong doanh nghiệp tại các khu công nghiệp trên ĐB.

 

 

Đa số các hộ dân cư đang sống trong các ngôi nhà/căn hộ có chất lượng còn tốt, được xây dựng và bắt đầu đưa vào sử dụng trong hai thập kỷ vừa qua (từ năm 2000 đến nay) với 78,6%. Tốc độ xây dựng nhà ở diễn ra mạnh mẽ trong thập kỷ qua tên ĐB tỉnh, biểu hiện ở con số có 37,3% hộ dân sống trong các ngôi nhà/căn hộ mới được xây dựng trong vòng 10 năm trở lại đây. Các ngôi nhà được xây từ năm 2000 trở lại đây phổ biến hơn cả là ở Bình Xuyên (44,9%) và Vĩnh Yên (44,4%). Số ngôi nhà xây từ những năm trước 1975 của toàn tỉnh chiếm khoảng 0,9%, nghĩa là khoảng 2.800 số hộ đang sống trong các ngôi nhà đơn sơ được xây dựng và đưa vào sử dụng lần đầu từ hơn 44 năm về trước. Điều này cho thấy, mặc dù tình trạng nhà ở của hộ dân cư đã được cải thiện trong thời gian qua nhưng vẫn còn những hộ phải sống trong các ngôi nhà có chất lượng kém với tuổi thọ quá dài, có thể không đảm bảo mức độ an toàn theo quy định.

 

 

10.3. Điều kiện ở và sinh hoạt

a) Điều kiện ở

Điều kiện ở và sinh hoạt của hộ dân trên ĐB tỉnh được cải thiện rõ rệt trong 10 năm qua, thể hiện rõ nhất ở chỉ tiêu số hộ dân được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh đạt tỷ lệ cao. Tuy vậy, tỷ lệ hộ được sử dụng nguồn nước máy còn thấp.

Cùng với sự phát triển của tình trạng, chất lượng nhà ở thì điều kiện ở và sinh hoạt của hộ dân cư cũng được cải thiện rõ rệt trong một thập kỷ qua. Có 100% hộ dân của tỉnh sử dụng điện lưới thắp sáng. Tỷ lệ hộ dân sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh (bao gồm nước máy, nước mua, nước giếng khoan, giếng đào được bảo vệ, nước khe/mó được bảo vệ) là 98,4%; trong đó, 29,5% hộ sử dụng nguồn nước máy. Như vậy, tỷ lệ hộ dân sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh của tỉnh cao hơn mức 97,4% của toàn quốc nhưng tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước máy lại thấp hơn khá nhiều, cả nước có là 52,2% hộ dân đã được sử dụng nước máy để ăn uống là chính; cao hơn Vĩnh Phúc 22,7 điểm phần trăm.

 

Theo biểu 10.5, có sự chênh lệch khá lớn giữa KVTT và KVNT về tỷ lệ hộ dân đã được sử dụng nguồn nước máy, tỷ lệ này ở KVNT khá thấp, chỉ đạt 14,8%, trong khi ở thành thị là 70,4%. Vì vậy, tỉnh cần đầu tư xây dựng, vận hành và đưa vào khai thác thêm nhiều nhà máy nước sạch tại các địa phương trong tỉnh, đảm bảo cung cấp đủ nguồn nước sạch đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dân, nhất là cư dân ở KVNT.

 

 

Tỷ lệ hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh (hố xí tự hoại và bán tự hoại) cũng tăng mạnh. Toàn tỉnh hiện có 90,2% hộ sử dụng hố xí tự hoại và bán tự hoại, cao hơn cả nước (88,9%) và gấp trên 2,4 lần năm 2009. Tỷ lệ hộ dân cư KVTT sử dụng hố xí hợp vệ sinh là 97,6%, cao hơn 10,1 điểm phần trăm so với KVNT.

Như vậy, mục tiêu “đến năm 2020 nâng tỷ lệ hộ gia đình có công trình phụ hợp vệ sinh lên 90%” của Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 tại tỉnh cơ bản đã đạt được.

 

b) Tiện nghi sinh hoạt

Tỷ lệ hộ có thết bị điện tử như máy vi tính và điện thoại tăng mạnh. Các thiết bị sinh hoạt phục vụ thiết thực cho đời sống và phương tiện giao thông có động cơ trở nên phổ biến đối với hộ dân của tỉnh.

Ti vi, đài (radio, radio casetts), máy vi tính (máy bàn, laptop), điện thoại cố định, di động, máy tính bảng được xem là những thiết bị điện tử, nghe nhìn giúp người dân có thể tiếp cận nhanh, kịp thời với các thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nước và thế giới. Trong đó, ti vi đã trở thành một loại thiết bị sinh hoạt không thể thiếu của hầu hết các hộ gia đình ở cả khu vực nông thôn và thành thị.

Toàn tỉnh có tới 95,3% hộ có sử dụng ti vi, tỷ lệ hộ dân ở thành thị sử dụng ti vi là 92,3%, thấp hơn ở nông thôn 4 điểm phần trăm. Điều này được lý giải là do, người dân thành thị có thể sử dụng các thiết bị công nghệ thông minh khác như điện thoại thông minh, máy tính bảng để xem các chương trình truyền hình thay thế những chiếc ti vi truyền thống.

 

 

Năm 2019, 28,8% hộ dân của tỉnh có máy vi tính, con số này của năm 2009 chỉ là 7%. Người dân KVTT sử dụng máy vi tính nhiều hơn người dân nông thôn với 45,6% hộ dân có máy vi tính, trong khi ở KVNT chỉ có 22,7% hộ dân sở hữu thiết bị này. Tỷ lệ hộ có sử dụng thiết bị thông tin liên lạc gồm điện thoại cố định, điện thoại di động và máy tính bảng ở mức rất cao, đạt 91,4%; sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn của chỉ tiêu này là không lớn, chỉ 1,3 điểm phần trăm.

Hình 10.2 cho thấy, toàn tỉnh có 86,5% hộ dân sử dụng phương tiện giao thông có động cơ là mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện, xe máy điện cho mục đích sinh hoạt của hộ; tăng 12,5 điểm phần trăm so với 10 năm trước. Đặc biệt, 9,4% hộ dân của tỉnh đã có ô tô, cao hơn mức chung 5,7% của toàn quốc. Sở hữu một chiếc ô tô đã dần trở nên phổ biến đối với các hộ dân trên ĐB tỉnh khi mà cứ khoảng 10 hộ thì có 01 hộ có ô tô.

 

 

Tiện nghi sinh hoạt của người dân đã có sự thay đổi mạnh trong giai đoạn 2009 - 2019, một số thiết bị sinh hoạt đã trở thành vật dụng không thể thiếu trong các gia đình, thể hiện ở một số điểm như: gần 49,7% hộ dân sử dụng điều hoà nhiệt độ (nghĩa là, cứ 02 hộ thì có 01 hộ sử dụng điều hoà nhiệt độ), tăng gần 47 điểm phần trăm; 69,3% hộ có máy giặt, tăng 62 điểm phần trăm; 91,5% hộ có tủ lạnh; tăng 62,6 điểm phần trăm so với năm 2009 và hiện có 71,3% hộ sử dụng bình tắm nóng lạnh.

 

Biểu 10.7 cho biết nguồn nhiên liệu (năng lượng) chính dùng để nấu ăn của các hộ dân: Toàn tỉnh có 90,3% các hộ dân sử dụng bếp gas/bioga (278.354 hộ), trong tổng số 308.251 hộ dân của tỉnh, có 5,37% hộ dùng điện; 4,1% hộ dùng củi để nấu ăn. Đặc biệt, có 145 hộ không dùng gì để nấu ăn, hiện tượng này được hiểu là các hộ dân cư này không nấu ăn tại nhà, hộ có thể sử dụng đồ ăn nhanh, xuất ăn theo đơn đặt hàng, hoặc bữa ăn tại các nhà hàng, quán ăn trên ĐB.

Sử dụng bếp than để nấu ăn tại các quán hàng kinh doanh dịch vụ ăn uống vẫn còn tồn tại ở các địa phương trong tỉnh. Tuy nhiên, điểm đáng mừng là toàn tỉnh chỉ còn 416 hộ dân dùng than để nấu ăn là chính. Việc sử dụng bếp than hoàn toàn không có lợi cho sức khoẻ của người dân và môi trường sống, vì vậy, người dân đã lựa chọn loại bếp khác thay thế cho việc dùng bếp than trong sinh hoạt (là loại bếp phổ biến trong thập kỷ trước) để đảm bảo sức khoẻ cho gia đình và góp phần bảo vệ môi trường.