CHƯƠNG 5:

MỨC SINH

 

Mức sinh là một nhân tố quan trọng tác động đến tăng trưởng dân số, là thông tin đầu vào cho việc xây dựng và thực hiện các chính sách về dân số và phát triển đất nước. Mức sinh chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố sinh học, kinh tế, văn hóa, xă hội, y tế và môi trường. TĐT thu thập thông tin về lịch sử sinh của phụ nữ từ 10-49 tuổi thuộc các ĐBĐT mẫu (gồm các thông tin: số con đă từng sinh; số con hiện c̣n sống; số con đă chết; tháng và năm sinh dương lịch của lần sinh gần nhất, số con trai và số con gái của lần sinh gần nhất; số con trai và số con gái được sinh ra từ tháng 4/2018 đến tháng 3/2019) để ước lượng các chỉ tiêu về mức sinh.

5.1. Tổng tỷ suất sinh

Mức sinh của Vĩnh Phúc vẫn duy tŕ tương đối ổn định trong thập kỷ qua, tổng tỷ suất sinh xu hướng tăng từ năm 2015 trở lại đây và cao hơn tổng tỷ suất sinh của toàn quốc và vùng ĐBSH.

Ước lượng tổng tỷ suất sinh (TFR) của Vĩnh Phúc từ kết quả TĐT là 2,39 con/phụ nữ, cao hơn tổng TFR của toàn quốc và vùng ĐBSH (2,09 và 2,35). TFR của tỉnh bắt đầu tăng và trở nên cao hơn mức sinh thay thế (2,1 con/phụ nữ) từ năm 2013. Vấn đề này đặt ra thách thức cho công tác dân số của tỉnh nhà. Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục thực hiện tốt các chính sách về dân số - kế hoạch hóa gia đ́nh, chăm sóc sức khỏe sinh sản, các chương tŕnh dân số và phát triển… trên địa bàn.

 

 

5.2. Sinh con ở tuổi chưa thành niên

Trên địa bàn tỉnh, vẫn có t́nh trạng phụ nữ sinh con ở tuổi chưa thành niên.

Chưa thành niên là những người chưa đủ 18 tuổi. TĐT thu thập thông tin về t́nh h́nh sinh con của trẻ em nữ chưa thành niên (từ 10 đến 17 tuổi), nhóm tuổi đang trong quá tŕnh phát triển về thể chất lẫn tinh thần và chưa phù hợp để làm mẹ, nhằm cung cấp căn cứ chính xác đánh giá thực trạng trẻ em gái sinh con ở độ tuổi này, từ đó hoạch định các chính sách bảo vệ cần thiết.

Theo kết quả TĐT của tỉnh, vẫn c̣n tồn tại các trường hợp trẻ em nữ chưa thành niên sinh con trong 12 tháng trước thời điểm điều tra. Tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi 10-17 tuổi sinh con trong 12 tháng trước ngày 01/4/2019 của tỉnh là 1,2%. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với tỷ lệ chung của toàn quốc và không có sự khác biệt nhiều giữa hai khu vực thành thị và nông thôn, nhưng nó biểu hiện xu hướng kết hôn và sinh con sớm của nữ giới trên địa bàn.

 

 

5.3. Tỷ suất sinh thô

Tỷ suất sinh thô của Vĩnh Phúc có giảm trong giai đoạn 2009 - 2019 nhưng vẫn cao hơn mức chung của toàn quốc.

Tỷ suất sinh thô (CBR) của tỉnh năm 2019 đă giảm so với năm 2009, hiện là 17,2 trẻ sinh sống/1000 dân, thấp hơn mức chung của Vùng ĐBSH (17,9‰) nhưng cao hơn con số 16,3‰ của toàn quốc. Trong giai đoạn 2009 – 2019, CBR của dân số Vĩnh Phúc luôn ở mức trên 17‰ và cao hơn toàn quốc. Tuy nhiên so với vùng ĐBSH, tỷ suất sinh thô năm 2019 của tỉnh có dấu hiệu tích cực hơn năm 2009

 

 

 

5.4. Tỷ số giới tính khi sinh

Tỷ số giới tính khi sinh (tỷ số GTKS) của Vĩnh Phúc hiện ở mức cao hơn toàn quốc và vùng ĐBSH; đồng thời, đă tăng mạnh so với năm 2009. Vĩnh Phúc hiện là một trong 8 tỉnh cao tỷ số GTKS cao nhất toàn quốc.

Tỷ số GTKS phản ánh sự cân bằng giới tính của số bé trai và bé gái khi được sinh ra. Tỷ số này thông thường là 104 - 106 bé trai/100 bé gái sinh ra sống. Bất kỳ sự thay đổi đáng kể nào của tỷ số GTKS chệch khỏi mức sinh học b́nh thường đều phản ánh những can thiệp có chủ định và sẽ làm ảnh hưởng đến sự mất cân bằng tự nhiên và sự ổn định của dân số, kéo theo nhiều hệ luỵ của xă hội.

Tỷ số GTKS của Vĩnh Phúc năm 2019 là 119,8 bé trai/100 bé gái, cao hơn mức chung của toàn quốc (111,5) và vùng ĐBSH (115,5) và đă tăng khoảng 5 bé trai so với năm 2009. Đây là con số báo động t́nh trạng mất cân bằng GTKS ngày càng lớn trên địa bàn tỉnh.

 

 

Tỷ số GTKS cũng có sự khác biệt lớn giữa thành thị và nông thôn với tỷ lệ tương ứng là 108,8 và 123,5 bé trai/100 bé gái. Rơ ràng tâm lư mong muốn có con trai đă ảnh hưởng lớn đến tỷ số này của các vùng miền. Sự gia tăng đáng quan ngại về tỷ số GTKS của tỉnh nói riêng cũng như cả nước nói chung trong những năm gần đây đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách. Theo đó, cảnh báo về những hệ lụy của sự mất cân bằng GTKS và sự quyết liệt thực hiện các chính sách nhằm xóa bỏ sự can thiệp có chủ đích trong lựa chọn giới tính khi mang thai ở tỉnh và cả nước trong thời gian qua chưa đem lại hiệu quả; t́nh trạng mất cân bằng giới tính khi sinh chưa được khắc phục.

Thực tế cho thấy, t́nh trạng bất b́nh đẳng giới c̣n tồn tại khá sâu sắc trong xă hội. Sự lựa chọn giới tính trước khi sinh là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng mất cân bằng GTKS; việc tiếp cận các dịch vụ y tế dễ dàng hơn trong lựa chọn giới tính thai nhi khi mang thai hoặc chuẩn đoán giới tính thai nhi dẫn tới hành động nạo phá thai v́ lư do lựa chọn giới tính… T́nh trạng thiếu hụt số trẻ em gái quan sát được gần đây ở Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới sẽ dẫn đến t́nh trạng thiếu hụt phụ nữ ở tất cả các nhóm tuổi trong tương lai. Cấu trúc gia đ́nh, cấu trúc dân số, t́nh trạng hôn nhân của người dân trong những thập kỷ tới sẽ mang dấu ấn của việc lựa chọn GTKS ở hiện tại với quy mô dân số nam vượt trội trong một thời gian dài.