CHƯƠNG 6:
MỨC CHẾT
Mức chết là thông tin quan trọng trong
nghiên cứu nhân khẩu học và nhiều ngành khoa học
khác có liên quan như dịch tễ học, y tế công cộng,
thống kê,… Mức chết được sử dụng
như là thông tin đầu vào để ước tính “Tuổi
thọ trung bình tính từ lúc sinh” (hay tuổi thọ trung bình,
kỳ vọng sống khi sinh hoặc tuổi thọ bình quân
khi sinh) của một người; là một trong những
thành tố để tính chỉ số phát triển con người
(HDI) do Liên hợp quốc hướng dẫn thực hiện.
Trong nghiên cứu nhân khẩu học, mức chết đóng
vai trò quan trọng cùng với mức sinh để xác định
tỷ lệ tăng dân số.
TĐT cung cấp thông tin để đánh
giá toàn diện nhất về mức chết. Trong đó, ước
lượng các chỉ tiêu về: Tỷ suất chết thô,
tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi,
tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi,
tỷ số tử vong mẹ trên một trăm nghìn trẻ
sinh sống theo phương pháp ước lượng gián
tiếp để phân tích về mức chết đang diễn
ra hiện nay.
6.1. Tỷ suất chết thô
Tỷ suất chết thô của Vĩnh Phúc
năm 2019 thấp hơn so với năm 2009, đồng
thời thấp hơn so với toàn quốc và vùng ĐBSH.
Tỷ suất chết
thô (CDR) là một trong những chỉ tiêu được sử
dụng rộng rãi nhất để phản ánh mức độ
tử vong của dân số. Chỉ tiêu này cho biết trung bình
cứ mỗi 1000 dân thì có bao nhiêu người chết trong
một thời gian nhất định, thường là 12
tháng trước thời điểm điều tra. CDR bị
ảnh hưởng bởi cơ cấu dân số theo tuổi
và giới tính của dân số theo vùng lãnh thổ hay một
tập hợp dân số.
Theo kết quả TĐT, Vĩnh Phúc có CDR là
5,9 người chết/1000 dân, thấp hơn 0,4 điểm
phần nghìn so với toàn quốc và 0,5 điểm phần
nghìn so với vùng ĐBSH. CDR của tỉnh năm 2019 đã
giảm 1,4 điểm phần nghìn so với năm 2009. Điều
này cho thấy, khi điều kiện sống của người
dân được cải thiện, công tác chăm sóc sức
khỏe sẽ được chú trọng hơn giai đoạn
trước…, đó là những yếu tố quan trọng tác
động làm CDR của tỉnh có xu hướng giảm
so với thời kỳ trước.
Xét theo giới tính,
nam giới hiện có CDR là 7,1‰, tương đương
mức chung toàn của và vùng ĐBSH, cao hơn mức 4,8‰ của
giới nữ.
6.2. Tỷ suất chết của trẻ em dưới
1 tuổi và dưới 5 tuổi
Tỷ suất chết của trẻ em dưới
1 tuổi và dưới 5 tuổi của tỉnh thấp hơn
so với cả nước nhưng vẫn còn cao hơn vùng
ĐBSH.
Tỷ suất chết của trẻ em dưới
1 tuổi (IMR) là số đo mức độ chết của
trẻ em trong năm đầu tiên của cuộc sống,
phản ánh tình hình cung cấp chất lượng các dịch
vụ và phương tiện chăm sóc sức khỏe bà mẹ
và trẻ em, đánh giá mức độ tử vong của
nhóm dân số có mức độ chết cao và tác động
mạnh đến tuổi thọ trung bình tính từ lúc
sinh của dân số.
Mọi biểu hiện
của sự giảm mức chết đều ảnh hưởng
trực tiếp đến IMR và thông qua đó tác động
đến phân bố dân số theo độ tuổi. IMR luôn
có mối liên hệ thống kê chặt chẽ với mức
độ sinh nên việc tăng hay giảm chỉ tiêu này có
tác động đến sự tăng/giảm của mức
độ sinh trên địa bàn.
Kết quả TĐT cho thấy, Vĩnh Phúc
đạt hiệu quả trong công tác chăm sóc sức khỏe
bà mẹ và trẻ em góp phần vào giảm mức chết
trẻ em dưới 1 tuổi từ 12,9‰ năm 2009 xuống
còn 12,2‰ năm 2019. Tỷ suất này hiện thấp hơn
mức chung của cả nước nhưng cao hơn vùng
ĐBSH; đồng thời, mức giảm IMR của tỉnh
sau 10 năm không nhanh bằng mức giảm của cả
nước và Vùng. Công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ
và trẻ sơ sinh cần được tiếp tục
quan tâm nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ
thai sản, chăm sóc sức khoẻ sau sinh, chương
trình tiêm chủng mở rộng… góp phần giảm trường
hợp tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi.
Trong khi IMR liên quan nhiều
đến điều kiện thai sản, chất lượng
chăm sóc sức khoẻ của bà mẹ thì tỷ suất
chết của trẻ em dưới 5 tuổi (U5MR) chủ
yếu phản ánh về tình trạng dinh dưỡng và chất
lượng công tác phòng bệnh, chữa bệnh cho trẻ
em trong những năm tháng đầu đời.
Quan sát hình 6.1 dưới
đây ta thấy, việc phòng chống bệnh tật, nuôi
dưỡng và chăm sóc sức khoẻ cho trẻ dưới
5 tuổi của tỉnh đã đạt được
thành tựu đáng ghi nhận. U5MR của tỉnh là 18,3 trẻ
tử vong/1000 trẻ sinh sống, thấp hơn so với
toàn quốc 2,7 điểm phần nghìn. Tỷ suất này đang
có sự chênh lệch khá lớn giữa hai giới và kết
quả TĐT cho biết rằng, đây cũng là tình trạng
chung của các địa phương khác trong cả nước.
Tại tỉnh, tỷ suất chết của trẻ em nam
dưới 5 tuổi cao hơn trẻ em nữ 11,8 điểm
phần nghìn. Như vậy, ở độ tuổi dưới
5 tuổi, trẻ em nam có nguy cơ tử vong cao hơn trẻ
em nữ.
6.3. Nguyên nhân chết
Ngoài yếu tố bệnh tật, tai nạn
giao thông là nguyên nhân hàng đầu dẫn tới tử vong
trên địa bàn tỉnh. Tỷ trọng tử vong vì tai nạn
giao thông ở KVTT cao hơn nhiều so với KVNT.
Theo kết quả
TĐT, đa số các trường hợp chết xảy
ra trong 12 tháng trước thời điểm điều
tra là do bệnh tật, chiếm 92,9%. Tuy nhiên, tử vong do
tai nạn giao thông chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong các nguyên nhân gây ra tử vong còn lại với 3,2% trường
hợp tử vong. Đáng lưu ý là, tử vong do tại nạn
giao thông ở KVTT hiện ở mức rất cao, chiếm
tới 8,1% các trường hợp chết của dân số
thành thị, trong khi đó, tỷ lệ này ở nông thôn là
2%.
6.4. Tuổi thọ trung bình
Tuổi thọ trung bình của dân số Vĩnh
Phúc đạt 74,3 tuổi, tăng 0,3 tuổi so với năm
2009, cao hơn 0,7 tuổi so với cả nước; tuổi
thọ trung bình của nam thấp hơn nữ với mức
chênh lệch là khoảng 5 tuổi.
Tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh (còn
gọi là triển vọng sống trung bình khi sinh hay tuổi
thọ trung bình) phản ánh mức độ chết của
dân số, chỉ tiêu này chịu ảnh hưởng bởi
mức độ chết ở tất cả các độ
tuổi của dân số, đặc biệt là độ
tuổi sơ sinh và trẻ em. Tuổi thọ trung bình tính từ
lúc sinh được sử dụng để so sánh mức
độ chết giữa các thời kỳ, các vùng, các tỉnh
trong cả nước và dùng để phân tích, dự báo dân
số dài hạn. Tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh
còn là một trong những chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá mức độ phát triển của một quốc
gia, một vùng hay một địa phương; là một
thành tố để tính chỉ số phát triển con người
(HDI).
Kết quả TĐT
cho biết, dân số của tỉnh có tuổi thọ trung
bình là 74,3 tuổi (toàn quốc là 73,6 tuổi), đối với
nam giới là 71,8 tuổi và nữ là 77,0 tuổi. Khoảng
chênh lệch về tuổi thọ trung bình giữa nam và nữ
qua hai cuộc TĐT năm 2009 và 2019 không thay đổi, đều
là 5,2 tuổi, ngang bằng mức chênh lệch tuổi thọ
giữa hai giới trên phạm vi toàn quốc.