CHƯƠNG 7:

DI CƯ VÀ ĐÔ THỊ HÓA

 

Di cư là sự thay đổi nơi cư trú của con người, từ đơn vị lănh thổ này tới một lănh thổ khác trong một khoảng thời gian nhất định. Di cư nội địa có vai tṛ quan trọng tới biến động dân số, đặc biệt trong bối cảnh mức sinh và mức chết tương đối ổn định như ở nước ta. Di cư là động lực tích cực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xă hội, góp phần phân bố lại dân cư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế lao động, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo và bảo đảm phát triển bền vững.

TĐT thu thập các thông tin về di cư thông qua câu hỏi về nơi thực tế thường trú 5 năm trước thời điểm điều tra đối với những người từ 5 tuổi trở lên nhằm mục tiêu chính là đánh giá t́nh h́nh di cư nội địa. Một người được coi là người di cư nếu nơi thực tế thường trú hiện nay và nơi thực tế thường trú 5 năm trước thời điểm điều tra không cùng một đơn vị hành chính cấp xă. Trong thực tế, thông tin về nhập cư quốc tế của những người Việt Nam hiện là nhân khẩu thực tế thường trú tại hộ trên địa bàn tỉnh với tỷ lệ được ghi nhận là rất nhỏ. Do đó, trong phạm vi ấn phẩm này, thuật ngữ di cư được hiểu là di cư trong nước hay di cư nội địa.

Di cư trong nước bao gồm: di cư giữa các tỉnh, di cư giữa các huyện trong cùng một tỉnh và di cư trong cùng huyện, thành phố của tỉnh (của những người từ 5 tuổi trở lên).

Không di cư: Bao gồm những người từ 5 tuổi trở lên và 5 năm trước thời điểm điều tra sống trong cùng xă, phường, thị trấn với nơi thực tế thường trú hiện tại.

Dựa trên khu vực của nơi thực tế thường trú 5 năm trước thời điểm điều tra và nơi thực tế thường trú hiện tại, các luồng di cư được phân loại như sau: Di cư từ khu vực nông thôn đến nông thôn; từ khu vực nông thôn đến thành thị; từ khu vực thành thị đến nông thôn và từ khu vực thành thị đến thành thị.

7.1. Mức độ di cư theo cấp hành chính

Di cư của tỉnh giảm về số lượng và tỷ lệ so với năm 2009.

Trong số 1.043.400 người dân từ 5 tuổi trở lên của tỉnh có 37.896 người di cư, chiếm 3,6%. Trong đó, số người di cư giữa các huyện và di cư giữa các tỉnh chiếm lần lượt là 0,5% và 1,2%; nhóm di cư trong huyện chiếm tỷ lệ lớn nhất 1,6%, nhóm nhập cư quốc tế chỉ chiếm 0,3%. So với năm 2009, số người di cư đă giảm từ 5% dân số từ 5 tuổi trở lên xuống c̣n 3,6% và giảm 7.491 người. Nguyên nhân một phần của việc di cư của giai đoạn 1999 - 2009 trở nên phổ biến hơn hơn thập kỷ 2009 - 2019 là do: giai đoạn trước năm 2009, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ kèm theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp - xây dựng và khu vực dịch vụ, sự xuất hiện và thu hút một lực lượng lao động lớn của các khu công nghiệp ở KVTT kéo theo sự di cư khá mạnh giữa các địa phương trong tỉnh, người ở nông thôn chuyển tới sinh sống và làm việc tại thành thị khá nhiều. Tuy nhiên, tới thập kỷ 2009 - 2019, t́nh h́nh kinh tế - xă hội của tỉnh có bước phát triển ổn định hơn, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, các khu công nghiệp mọc lên cả ở KVNT của tỉnh đă giải quyết được công ăn việc làm tại chỗ cho người lao động, từ đó làm giảm số lượng người dân di cư nội tỉnh trong giai đoạn này.

 

 

7.2. Di cư giữa các tỉnh

Theo kết quả TĐT, Vĩnh Phúc là một trong 51 tỉnh, thành phố trên toàn quốc có tỷ suất di cư thuần âm. So với năm 2009, tỷ suất xuất cư và nhập cư của tỉnh đều giảm mạnh.

Vĩnh Phúc có tỷ suất nhập cư là 12,3‰, có nghĩa là cứ 1000 người dân của tỉnh th́ có 12,3 người chuyển đến từ tỉnh thành phố khác, giảm 10,1 điểm phần ngh́n so với năm 2009. Số lượng người xuất cư khỏi tỉnh là 23,8‰, tức là: cứ 1000 người dân của tỉnh th́ đă có 23,8 người chuyển đi khỏi địa bàn tỉnh; so với năm 2009, tỷ suất xuất cư đă giảm mạnh tới 27,1 điểm phần ngh́n. Tỷ suất di dư thuần năm 2019 là -11,5‰, con số tương ứng của năm 2009 là -28,5‰.

 

 

7.3. Luồng di cư

Luồng di cư nông thôn - nông thôn chiếm tỷ lệ cao nhất, trái ngược với luồng di cư chủ đạo trên phạm vi cả nước và vùng ĐBSH là thành thị - thành thị.

Năm 2019, luồng di cư nông thôn - nông thôn là 38,7%; từ nông thôn - thành thị chiếm 31,7%. Xu hướng người dân di cư từ nông thôn ra thành thị chủ yếu là để t́m kiếm việc làm, đây hiện tượng tự nhiên và luôn chiếm tỷ trọng lớn trong các luồng di cư. Tuy nhiên, xu hướng này sẽ ngày càng giảm, nguyên nhân chủ yếu là do cơ hội có việc làm và điều kiện sống ở KVNT ngày càng được cải thiện mạnh mẽ, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.

 

 

7.4. Tốc độ đô thị hoá

Tỷ lệ dân số thành thị của tỉnh đă tăng lên sau một thập kỷ nhưng tốc độ tăng c̣n chậm, tốc độ đô thị hoá chưa đáp ứng yêu cầu.

Từ năm 2009 đến nay, tỷ trọng dân số KVTT tăng 3,18 điểm phần trăm. Trong khi đó, trên phạm vi toàn quốc, dân số KVTT giai đoạn 2009 - 2019 tăng 4,8 điểm. Như vậy, tốc độ đô thị hóa trong 10 năm qua ở tỉnh Vĩnh Phúc chậm hơn so với mức chung của cả nước. Tốc độ tăng dân số thành thị b́nh quân năm giai đoạn 2009 - 2019 đạt 2,7%/năm. Tuy có sự gia tăng về quy mô dân số đô thị nhưng tỷ trọng dân số đô thị của tỉnh năm 2019 chỉ đạt 25,63%; vẫn ở mức rất thấp so với mức 34,43% của cả nước và 35,06% của vùng ĐBSH.

 

 

người dân từ nông thôn ra thành thị. Tuy nhiên, yếu tố tác động mạnh nhất đến tốc độ đô thị hoá là sự chuyển đổi đơn vị hành chính từ xă thành phường và thị trấn.

Tổng điều tra năm 2009, toàn tỉnh có 25 phường và thị trấn với tỷ lệ dân số sống tại KVTT là 22,45%. Đến năm 2019, toàn tỉnh có 27 phường và thị trấn với dân số thành thị đạt 25,63%. Như vậy, sau 10 năm, với số đơn vị hành chính cấp xă toàn tỉnh không thay đổi với 137 xă, phường, thị trấn; số phường và thị trấn của tỉnh chỉ tăng lên 02 đơn vị (do xă Tiền Châu và Nam Viêm thuộc thành phố Phúc Yên được chuyển đổi thành Phường Tiền Châu và Nam Viêm), tỷ lệ dân số thành thị chỉ tăng 3,18%.

Giả định các yếu tố tăng dân số tự nhiên và cơ học không thay đổi, quyết định hành chính này đă chuyển 20.229 người của 02 địa phương nói trên đang là cư dân nông thôn thành cư dân thành thị, tương đương 1,76% dân số của tỉnh và 6,86% dân số thành thị của tỉnh năm 2019.

Với sự gia tăng tỷ lệ cư dân thành thị trong 10 năm qua như trên, xét trên tiêu chí về tỷ lệ dân số thành thị th́ tốc độ đô thị hoá của tỉnh hiện chưa đáp ứng yêu cầu sớm đưa Vĩnh Phúc trở thành thành phố trực thuộc Trung ương như mục tiêu đề ra của tỉnh.