CHƯƠNG 8:

GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

 

TĐT cung cấp thông tin phục vụ đánh giá các thành tựu đạt được trong nâng cao trình độ giáo dục, đào tạo của người dân góp phần thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững mà nước ta cam kết thực hiện. Thông tin từ TĐT đánh giá tình hình giáo dục, đào tạo của tất cả dân số từ 5 tuổi trở lên cả nước nói chung và của tỉnh nói riêng.

8.1. Tỷ lệ đi học chung và tỷ lệ đi học đúng tuổi

Mức độ tiếp cận với giáo dục phổ thông của dân cư tỉnh Vĩnh Phúc ở mức cao so với cả nước, nhất là ở bậc THCS và THPT, thể hiện ở tỷ lệ đi học chung và đi học đúng tuổi của các bậc học đều cao hơn .

Tỷ lệ đi học là chỉ tiêu phản ánh đầu vào của giáo dục. Tỷ lệ đi học chung là số học sinh đang tham gia vào một cấp giáo dục phổ thông (không kể tuổi) tính trên 100 người trong tuổi đến trường của cấp học đó. Tỷ lệ đi học đúng tuổi là số học sinh trong tuổi đến trường của một cấp học phổ thông đang tham gia vào cấp học đó tính trên 100 người trong tuổi đến trường của cấp học đó.

Theo quy định của Luật Giáo dục, hệ thống giáo dục phổ thông của Việt Nam được chia thành 3 cấp với những quy định cụ thể về thời gian và độ tuổi như sau:

- Cấp tiểu học được thực hiện trong năm năm học từ lớp 1 đến lớp 5 và tuổi của học sinh vào học lớp 1 là 6 tuổi;

- Cấp trung học cơ sở (THCS) được thực hiện trong bốn năm học từ lớp 6 đến lớp 9 và tuổi của học sinh vào học lớp 6 là 11 tuổi;

- Cấp trung học phổ thông (THPT) được thực hiện trong ba năm học từ lớp 10 đến lớp 12 và tuổi của học sinh vào học lớp 10 là 15 tuổi.

Như vậy, tại thời điểm điều tra ngày 01/4/2019, dân số trong độ tuổi đi học phổ thông bao gồm những người sinh từ năm 2001 đến 2012, trong đó: dân số trong độ tuổi đi học tiểu học bao gồm những người sinh từ năm 2008 đến năm 2012, dân số trong độ tuổi đi học THCS là người sinh từ năm 2004 đến năm 2007, dân số trong độ tuổi đi học THPT bao gồm đối tượng sinh từ năm 2001 đến năm 2003.

Năm 2019, tỷ lệ đi học chung của cấp tiểu học là 101,8%; THCS là 96,8% và THPT là 86,6%, đều cao hơn cả nước. Đặc biệt, ở cấp THPT, mức chênh lệch tỷ lệ đi học chung của Vĩnh Phúc và cả nước lên tới 14,3 điểm phần trăm. Tỷ lệ đi học chung của các địa phương không có sự khác biệt nhiều ở cấp tiểu học và THCS. Đối với cấp THPT, tỷ lệ đi học chung cao nhất ở Phúc Yên (93,5%), Vĩnh Yên (93,3%) và Bình Xuyên (90,3%), các huyện còn lại có tỷ lệ từ 81% đến 86%.

 

 

Phúc Yên là địa phương có tỷ lệ đi học đúng tuổi ở cả ba cấp cao nhất tỉnh với tỷ lệ tương ứng của cấp tiểu học, THCS và THPT là 99,6%; 98,8% và 93,5% và có sự khác biệt tương đối so với các địa phương khác trong tỉnh. Tam Đảo có tỷ lệ đi học đúng tuổi cấp tiểu học và THCS thấp nhất, chỉ đạt 97,4% và 91,2%. Huyện Vĩnh Tường có tỷ lệ đi học đúng tuổi cấp THPT chỉ đạt trên 78%, như vậy, chỉ có gần 4/5 học sinh cấp THPT của Vĩnh Tường được học đúng tuổi.

 

 

Hình minh hoạ trên đây cho ta nhận định rằng, ở cấp học càng cao thì tỷ lệ đi học đúng tuổi càng giảm. Tỷ lệ đi học đúng tuổi ở cả ba cấp của Vĩnh Phúc đều cao hơn toàn quốc; trong đó, cấp THPT của tỉnh đạt 83,3%, thấp hơn một chút so với mức chung của vùng ĐBSH nhưng cao hơn toàn quốc tới 15 điểm phần trăm.

Tỷ lệ đi học chung theo giới tính ở cấp tiểu học và THCS tương đối cân bằng, cơ hội đến trường giữa trẻ em trai và trẻ em gái của tỉnh ở độ tuổi này là ngang nhau. Ở bậc tiểu học, tỷ lệ đi học chung của trẻ em trai là 101,8%, của trẻ em gái là 101,7%; bậc THCS có tỷ lệ tương ứng là 96,7% và 96,8%. Ở bậc THPT, tỷ lệ đi học chung bắt đầu có sự khác biệt trên phạm vi toàn tỉnh và rõ rệt ở một số địa phương.

Tỷ lệ đi học chung của thanh niên nam thấp hơn thanh niên nữ 2,3 điểm phần trăm. Chênh lệch về tỷ lệ đi học chung của người nam và người nữ ở cấp THPT rõ ràng nhất ở huyện Bình Xuyên (4,8 điểm) và Lập Thạch (4,2 điểm). Trong 9 huyện, thành phố của tỉnh, chỉ Vĩnh Yên có tỷ lệ đi học chung ở cấp THPT của nam giới cao hơn nữ giới.

 

 

8.2. Trẻ em ngoài nhà trường

Tỷ lệ trẻ ngoài nhà trường của tỉnh ở mức thấp dưới 3%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ chung của toàn quốc tỷ lệ của toàn quốc; tuy nhiên ở cấp học càng cao, tỷ lệ này càng gia tăng.

Trẻ em ngoài nhà trường là trẻ em đang trong độ tuổi đi học phổ thông (sinh trong giai đoạn 2001 - 2012) nhưng chưa bao giờ đi học hoặc đã thôi học. Tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường biểu thị số trẻ em trong độ tuổi đi học nhưng không đi học trong tổng dân số của độ tuổi này.

Kết quả TĐT cho thấy, Vĩnh Phúc đã đạt được thành tích đáng ghi nhận trong công tác phổ cập giáo dục trên phạm vi toàn tỉnh với tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường (tỷ lệ dân số trong độ tuổi đi học phổ thông hiện không đi học) chỉ chiếm 2,9% dân số sinh trong giai đoạn 2001 - 2012 , đứng thứ 3 toàn quốc chỉ sau hai thành phố trực thuộc Trung ương là Hà Nội (2,3%) và Hải Phòng (2,6%).

Chênh lệch tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường giữa KVTT và KVNT của tỉnh là 0,6 điểm phần trăm, không có sự khác biệt quá nhiều về tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi học phổ thông hiện không đến trường xét theo giới tính trong từng khu vực sinh sống.

Xét theo đơn vị hành chính, 2 thành phố của tỉnh có kết quả phổ cập giáo dục phổ thông tốt nhất, chỉ có 1,6% trẻ em ngoài nhà trường; tỷ lệ này của Vĩnh Tường là cao nhất với 4,5%. Trong 9 huyện, thành phố của tỉnh, chỉ có Vĩnh Yên là địa phương có tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường của giới nam thấp hơn giới nữ.

 

 

Biểu kết quả dưới đây cho biết, ở cấp tiểu học, có 99,6% trẻ em trong độ tuổi tiểu học hiện đang đến trường; tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường ở bậc THCS là 1,5%; đối với bậc THPT, cứ 100 trẻ sinh từ năm 2001 đến năm 2003 thì có khoảng 12 em không được đến trường. Bậc học THCS và THPT có tỷ lệ trẻ em nam ngoài nhà trường cao hơn trẻ em nữ.

 

 

8.3. Tình hình biết đọc biết viết

Hầu hết người dân của tỉnh từ 15 tuổi trở lên đều biết đọc biết viết. Ở độ tuổi trẻ, tỷ lệ biết đọc biết viết của nam và nữ là tương đương nhau; độ tuổi càng cao, tỷ lệ biết chữ của nữ càng thấp so với nam giới. Không có sự khác biệt nhiều về tỷ lệ biết chữ giữa các địa phương trong tỉnh.

 

 

Biết đọc biết viết (hay còn gọi là biết chữ) là khả năng đọc và viết một đoạn văn đơn giản trong sinh hoạt hàng ngày bằng tiếng quốc ngữ, tiếng dân tộc hoặc tiếng nước ngoài. Câu hỏi về tình trạng biết đọc biết viết được hỏi đối với những người chưa hoàn thành bậc tiểu học (chưa học hết lớp 5) và giả thiết là tất cả những người có trình độ học vấn cao nhất từ bậc tiểu học trở lên đều biết chữ. Tỷ lệ biết chữ là một trong những chỉ tiêu chung nhất phản ánh đầu ra của giáo dục, được định nghĩa là tỷ lệ phần trăm những người biết chữ của một độ tuổi nhất định trong tổng dân số của độ tuổi đó.

Theo kết quả TĐT, tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên Vĩnh Phúc là 98,7%, tăng 1,5 điểm phần trăm so với năm 2009 (97,2%). Tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên của tỉnh giai đoạn 2009 – 2019 có tốc độ tăng chậm hơn giai đoạn 1999 – 2009. Tỷ lệ biết đọc biết viết của dân số 15 tuổi trở lên của tỉnh đang cao hơn cả nước (95,8%) và thấp hơn một chút so với vùng ĐBSH (98,9%). Công tác phổ cập giáo dục và xoá mù chữ trên địa bàn tỉnh những năm gần đây đã đạt được thành tựu đáng ghi nhận. Vì vậy, sự chênh lệch giữa tỷ lệ biết chữ của người dân từ 15 tuổi trở lên của giới nam và giới nữ, của thành thị và nông thôn dần được thu hẹp. Chia theo giới tính, tỷ lệ biết chữ của dân số nam từ 15 tuổi trở lên cao hơn nữ 1,1 điểm phần trăm, tương ứng 99,2% và 98,1%; tỷ lệ biết đọc biết viết của dân số từ 15 tuổi trở lên KVTT là 99,1%; cao hơn KVTT là 0,6 điểm.

 

 

Biểu đồ trên đây cho thấy, ở độ tuổi càng cao thì khoảng chênh lệch về mức độ biết chữ giữa hai giới càng lớn. Khoảng cách mức độ biết chữ giữa giới nam và nữ bắt đầu trở lên rõ rệt ở nhóm tuổi sau 60. Rõ ràng là, khi điều kiện kinh tế - xã hội phát triển thì người dân có cơ hội được học tập nhiều hơn và sự bình đẳng về giới được quan tâm một cách thiết thực hơn.

Chia theo đơn vị hành chính, tỷ lệ biết đọc biết viết của dân số 15 tuổi trở lên ở vùng miền của tỉnh tương đối đồng đều, đạt từ 98,3% đến 99,3%; riêng Tam Đảo có tỷ lệ thấp hơn, chỉ đạt 97,3%. Tuy vậy, mức tăng tỷ lệ này của Tam Đảo sau 10 năm là cao nhất trong 9 đơn vị hành chính của tỉnh.

 

 

8.4. Trình độ giáo dục cao nhất đạt được

Hơn 42% dân số từ 15 tuổi trở lên đạt trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên. Có sự khác biệt về trình độ học vấn giữa hai giới tính nam – nữ và giữa hai khu vực thành thị - nông thôn.

a) Trình độ học vấn

Học vấn là một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng dân số của một địa phương hoặc của quốc gia. Trình độ học vấn được phân tổ theo năm nhóm, bao gồm: (1) chưa tốt nghiệp tiểu học, (2) tốt nghiệp tiểu học, (3) tốt nghiệp THCS, (4) tốt nghiệp THPT và (5) trên THPT.

Số người từ 15 tuổi trở lên có trình độ học vấn THCS của toàn tỉnh chiếm tỷ lệ cao nhất, đạt 38,6%. Tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có trình độ từ THPT trở lên của toàn tỉnh đạt 42,5%; cao hơn mức chung của cả nước là 6 điểm phần trăm, nhưng vẫn thấp hơn vùng ĐBSH là 5,8 điểm.

Trên địa bàn tỉnh, có sự chênh lệch về trình độ học vấn cao nhất của dân số từ 15 tuổi trở lên giữa giới nam và giới nữ, giữa thành thị và nông thôn. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có trình độ học vấn thấp (chưa tốt nghiệp tiểu học/tốt nghiệp tiểu học/tốt nghiệp THCS) ở KVTT thấp hơn so với KVNT, của nam giới thấp hơn nữ giới; ngược lại, tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có trình độ học vấn cao hơn (tốt nghiệp từ THPT trở lên) của nam cao hơn nữ, ở thành thị cao hơn nông thôn.

 

 

b) Trình độ chuyên môn kỹ thuật

Sau 10 năm, tỷ lệ dân số có trình độ đại học trở lên tăng gần ba lần. Khi mức sống dân cư càng cao, tỷ lệ dân số có trình độ chuyên môn kỹ thuật càng cao. Tuy nhiên, vẫn còn gần 4/5 dân số từ 15 tuổi trở lên chưa có trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT).

Theo kết quả TĐT, toàn tỉnh có 79,1% dân số từ 15 tuổi trở lên không có trình độ CMKT, đã giảm 7,6 điểm phần trăm so với năm 2009. Tỷ lệ dân số có trình độ đại học và trên đại học tăng từ 2,8% năm 2009 lên 8% năm 2019 song vẫn thấp hơn nhiều so với cả nước và vùng ĐBSH (9,3% và 13,5%).

Biểu số liệu dưới đây cho thấy, tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên được đào tạo CMKT ở KVTT cao hơn KVNT, ở nam giới cao hơn nữ giới. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có trình độ từ đại học trở lên ở thành thị cao gấp 2,8 lần ở nông thôn nhưng khoảng cách của tỷ lệ này giữa hai giới tính không lớn, tỷ trọng người nam có trình độ từ đại học trở lên cao hơn nữ là 1,2 điểm phần trăm.

Huyện Tam Đảo có tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên không có trình độ CMKT cao nhất tỉnh, chiếm 86,4% dân số từ 15 tuổi trở lên của huyện, là địa phương có tỷ lệ đã được đào tạo thấp nhất. Tỷ lệ người dân có trình độ từ đại học trở lên của Tam Đảo rất thấp, chỉ đạt 4,1%, mặc dù đã tăng mạnh từ 0,9% năm 2009 nhưng vẫn là mức thấp nhất so với các địa phương còn lại. Vĩnh Yên, Phúc Yên và Bình Xuyên là 3 địa phương có tỷ lệ đào tạo CMKT của dân số cao nhất với tỷ lệ tương ứng là 38%, 24,8% và 21,2%.

Như vậy, mặc dù đã có nhiều cải thiện trong việc nâng cao trình độ tay nghề của người dân trong thời gian qua, song, để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư, tỉnh cần quyết liệt hơn nữa việc thực hiện các chính sách hỗ trợ công tác giáo dục đào tạo, các chương trình, kế hoạch đào tạo nghề để có được nguồn nhân lực trình độ cao, kỹ năng tốt, góp phần giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo bền vững, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và cả nước.

 

 

8.5. Số năm đi học bình quân, số năm đi học kỳ vọng

Số năm đi học bình quân và số năm đi học kỳ vọng của người dân Vĩnh Phúc tương ứng là 9,9 năm và 12,4 năm. Số năm đi học bình quân của người dân ở thành thị cao hơn ở nông thôn gần 2 năm.

Thông tin về giáo dục là một trong những thành tố để tính chỉ số phát triển con người (HDI). Thước đo về đóng góp của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế - xã hội cũng thay đổi theo sự phát triển nền kinh tế - xã hội. Hiện nay, thành tố giáo dục được dùng để tính chỉ số HDI là số năm đi học bình quân và số năm đi học kỳ vọng, thay thế cho tỷ lệ biết đọc, biết viết như trước năm 2013.

Số năm đi học bình quân được tính bằng tổng số năm đã đi học của dân số từ 25 tuổi trở lên so với tổng dân số từ 25 tuổi trở lên (tính theo tuổi tròn). Số năm đi học kỳ vọng là tổng số năm đi học mà trẻ em ở một độ tuổi nhất định kỳ vọng sẽ nhận được trong tương lai, giả định rằng xác suất đi học của trẻ ở một độ tuổi bất kỳ chính là tỷ lệ đi học của độ tuổi đó trong thời kỳ nghiên cứu.

 

 

Theo kết quả TĐT, số năm đi học bình quân của người dân số Vĩnh Phúc là 9,9 năm; con số này cao hơn bình quân của toàn quốc là 0,9 năm, nhưng thấp hơn bình quân của vùng ĐBSH là 0,7 năm.

Số năm đi học bình quân của nam giới cao hơn nữ giới là 1,0 năm (tương ứng là 10,4 năm và 9,4 năm). Người dân sống ở KVTT có số năm học bình quân cao hơn người dân sống ở nông thôn là 1,9 năm (tương ứng với 11,3 năm và 9,4 năm). Chênh lệch này một phần là do sự khác nhau trong cơ hội được tiếp cận giáo dục giữa nam giới và nữ giới, giữa thành thị và nông thôn trong quá khứ, khi mà điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn, khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền còn lớn và sự bất bình đẳng về giới thể hiện rõ ràng hơn giai đoạn hiện tại.

Số năm đi học bình quân của các huyện, thành phố là từ 8,7 năm đến 11,8 năm và ở tất cả các địa phương, nam giới có số năm đi học bình quân cao hơn nữ giới, mức chênh lệch số năm đi học bình quân giữa hai giới của các huyện, thành phố là từ 0,9 đến 1,1 năm.

Người dân huyện Tam Đảo có số năm đi học bình quân thấp nhất, chỉ ở mức 8,7 năm, trong khi ở thành phố Vĩnh Yên, số năm đi học bình quân của người dân nơi đây đạt 11,8 năm, là mức cao nhất tỉnh.

Số năm đi học kỳ vọng là 12,4 năm - con số này đã vượt qua tổng số năm đi học của tất cả các bậc học phổ thông. Số năm đi học kỳ vọng của nữ giới cao hơn 0,3 năm so với nam giới (tương ứng là 12,6 năm và 12,3 năm). Số năm đi học kỳ vọng của người dân thành thị cao hơn nông thôn (tương ứng là 13,4 năm và 12 năm). Người dân của thành phố Phúc Yên có số năm đi học kỳ vọng cao nhất toàn tỉnh với 13,9 năm; tại huyện Sông Lô, kỳ vọng về số năm đi học của người dân thấp nhất, chỉ là 11,7 năm, thấp hơn tổng số 12 năm học của tất cả các bậc học phổ thông từ tiểu học đến THPT.