CHƯƠNG 9:

LAO ĐỘNG VIỆC LÀM

 

TĐT thu thập thông tin về t́nh trạng làm việc tạo ra thu nhập trong 7 ngày trước thời điểm điều tra của dân số từ 15 tuổi trở lên để đánh giá mức độ tham gia thị trường lao động và hiệu quả sử dụng nguồn lao động của nền kinh tế, làm cơ sở để xây dựng, hoạch định các chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế - xă hội như tạo việc làm mới, giảm tỷ lệ hộ nghèo, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nghề và đảm bảo an sinh xă hội…

9.1. Lực lượng lao động

Lực lượng lao động (LLLĐ) là một bộ phận dân số cung cấp hoặc sẵn sàng cung cấp sức lao động để sản xuất của cải vật chất và dịch vụ nhằm mục đích tạo thu nhập cho cá nhân và gia đ́nh. LLLĐ bao gồm những người từ 15 tuổi trở lên có việc làm hoặc thất nghiệp trong thời kỳ nghiên cứu.

a) Cơ cấu lực lượng lao động của tỉnh

Gần một nửa dân số từ 15 tuổi trở lên tham gia thị trường lao động là phụ nữ và hơn 3/4 LLLĐ của tỉnh thuộc KVNT, lao động ở KVTT có xu hướng tăng.

 

 

LLLĐ của tỉnh gồm 624.817 người, có sự phân bố theo giới tính tương đối cân bằng với tỷ trọng 50,3% nam giới và 49,7% nữ giới tham gia vào LLLĐ. Như vậy, tỷ trọng lao động nữ trong LLLĐ đă giảm 1,1 điểm phần trăm so với năm 2009. LLLĐ ở thành thị tăng từ 20,1% năm 2009 lên 24,2% năm 2019. So với 10 năm trước, tỷ trọng lao động nữ trong LLLĐ của các huyện, thành phố đều giảm.

Phân bổ LLLĐ theo đơn vị hành chính cấp huyện có sự thay đổi đáng kể so với năm 2009, 3 địa phương tăng tỷ trọng là Vĩnh Yên, Phúc Yên và B́nh Xuyên - nơi tập trung nhiều khu công nghiệp với số lượng lớn các doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ và lao động người địa phương khác trong tỉnh; 6 huyện c̣n lại giữ nguyên hoặc giảm tỷ trọng trong LLLĐ của toàn tỉnh.

b) Tuổi tham gia lực lượng lao động

Người dân KVTT tham gia vào thị trường lao động muộn hơn và rời khỏi thị trường lao động sớm so với người dân KVNT. Tỷ trọng dân số tham gia vào LLLĐ đạt mức cao nhất ở độ tuổi 30-34.

 

 

Vĩnh Phúc có 81,7% dân số trong độ tuổi từ 25-59 tham gia vào LLLĐ và tỷ trọng người dân thành thị tham gia vào LLLĐ cao hơn nông thôn (KVTT là 84,2%; KVNT là 80,9%); trong đó tỷ trọng dân số tham gia LLLĐ đạt cực đại ở nhóm tuổi 30-34 (chiếm 15,3%) và giảm dần ở các nhóm tuổi c̣n lại. Dân số ở nhóm tuổi trẻ (nhóm 15-19 tuổi và nhóm 20-24 tuổi) và nhóm tuổi già (từ 60 tuổi trở lên) đều chiếm tỷ trọng tham gia LLLĐ thấp (ở mức dưới 9%).

So với toàn quốc th́ Vĩnh Phúc có tỷ trọng dân số trong độ tuổi từ 25-59 tham gia vào LLLĐ cao hơn 2,2 điểm phần trăm; nhóm người từ 15-24 và trên 60 tuổi tham gia lao động ít hơn, một phần là do người trẻ tuổi dành nhiều thời gian cho học tập, trang bị kiến thức và tích luỹ kỹ năng, người lớn tuổi th́ dành thời gian để nghỉ ngơi nhiều hơn so với mức chung của toàn quốc.

Tỷ trọng dân số từ 15-24 tuổi tham gia LLLĐ năm 2019 của tỉnh chỉ chiếm 11,3%, thấp hơn 10 điểm phần trăm so với năm 2009 (21,3%). Như vậy, dân số từ 15 tuổi trở lên có xu hướng tham gia vào thị trường lao động muộn hơn so với 10 năm trước đây. Rơ ràng, các thành tựu đạt được về kinh tế cùng với các yêu cầu cao hơn của thị trường về chất lượng nguồn lao động trong những năm gần đây là các nguyên nhân chính dẫn đến việc dân số từ 15 tuổi trở lên tham gia thị trường lao động muộn hơn, họ phải kéo dài thời gian tham gia các khoá đào tạo nâng cao tŕnh độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như chuẩn bị tốt các kỹ năng cần thiết để đáp ứng nhu cầu thị trường. KVTT có điều kiện kinh tế - xă hội phát triển hơn KVNT nên người dân thành thị cũng tham gia vào lực lượng lao động muộn hơn và rời khỏi thị trường lao động sớm hơn. Điều này thể hiện rơ ở nhóm dân số từ 15-19 tuổi và nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên, tỷ lệ tham gia vào LLLĐ đối với dân số từ 15-19 tuổi ở thành thị là 2%, nông thôn là 2,5%; tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên tiếp tục tham gia thị trường lao động của KVTT là 5% và KVNT là 7,6%.

c) Tŕnh độ học vấn của lực lượng lao động

Tŕnh độ học vấn của người lao động đă được nâng cao tuy nhiên khoảng cách khác biệt giữa các khu vực và giữa các địa phương trong tỉnh c̣n khá lớn.

Kết quả TĐT cho thấy toàn tỉnh có 48,5% LLLĐ có tŕnh độ học vấn từ tốt nghiệp THPT trở lên, hơn 51,5% số người của LLLĐ c̣n lại là có tŕnh độ học vấn chỉ từ THCS trở xuống; trong đó, có 0,3% là chưa đi học. Tŕnh độ từ tốt nghiệp THPT của LLLĐ Vĩnh Phúc cao hơn toàn quốc 9,4 điểm phần trăm nhưng vẫn cần tăng cao trong thời gian tới, khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đ̣i hỏi yêu cầu ngày càng cao về tŕnh độ tay nghề kéo theo yêu cầu về tŕnh độ học vấn của người lao động cũng phải được nâng cao hơn trước.

Có sự khác biệt đáng kể về tŕnh độ học vấn của LLLĐ giữa hai giới tính nam - nữ, khu vực thành thị - nông thôn, giữa các huyện, thành phố của tỉnh. Tỷ trọng người tham gia LLLĐ đă tốt nghiệp THPT trở lên ở KVTT gấp 1,5 lần KVNT (tương ứng là 64,8% và 44,3%); khoảng cách khác biệt về tỷ trọng người trong LLLĐ có tŕnh độ tốt nghiệp THPT trở lên giữa giới nam và giới nữ là 1,3 lần (với 54,7% và 42,3%); thành phố Vĩnh Yên có tỷ trọng dân số tham gia LLLĐ đạt tŕnh độ THPT trở lên cao nhất, đạt 70,6%, cao hơn huyện có tỷ trọng này thấp nhất là Tam Đảo tới 33,3 điểm phần trăm.

 

 

 

d) Tŕnh độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động

Mặc dù là tỉnh có nguồn lực lao động trẻ và dồi dào nhưng tŕnh độ tay nghề và chuyên môn kỹ thuật (CMKT) của LLLĐ Vĩnh Phúc vẫn c̣n rất thấp với 3/4 lao động chưa được đào tạo CMKT.

Năm 2019, dân số từ 15 tuổi trở lên tham gia LLLĐ được đào tạo CMKT từ sơ cấp trở lên của tỉnh là 25,0%, tăng 10,7 điểm phần trăm so với năm 2009 (14,3%); trong đó, KVTT đạt 38,3%; KVNT đạt 20,7%; đều tăng 10 điểm so với 10 năm trước. Tỷ lệ đă được đào tạo của nam giới là 31%, nữ giới là 19%.

Kết quả TĐT cho thấy, mặc dù tỷ lệ đă qua đào tạo của LLLĐ Vĩnh Phúc đă tăng mạnh so với năm 2009 và hiện cao hơn tỷ lệ chung của toàn quốc song vẫn ở mức thấp, chỉ 1/4 dân số từ 15 tuổi trở lên tham gia LLLĐ của tỉnh là đă được đào tạo; có nghĩa là cứ 04 người trong LLLĐ th́ chỉ có 01 đạt tŕnh độ từ sơ cấp trở lên. Như vậy, sau 10 năm, vẫn c̣n 75% người tham gia LLLĐ chưa được đào tạo CMKT và khoảng chênh lệch về tỷ lệ qua đào tạo của LLLĐ giữa thành thị và nông thôn không được thu hẹp (17,6 điểm phần trăm). Con số này đặt ra thách thức lớn cho việc xây dựng và thực thi các chính sách, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng năng suất lao động, giải quyết việc làm bền vững, tạo động lực phát triển nền kinh tế của tỉnh trong thời gian tới.

 

 

9.2. Việc làm

Việc làm là một trong những thước đo quan trọng để đánh giá sự phát triển của nền một nền kinh tế, là vấn đề thiết yếu của phần đông dân số v́ nó không chỉ đem lại thu nhập để nuôi sống mỗi cá nhân và gia đ́nh mà c̣n đem lại nhiều lợi ích to lớn khác cho toàn xă hội như góp phần xoá đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xă hội, tạo cân bằng cuộc sống, chuyển dịch cơ cấu lao động và chuyển đổi sự phát triển xă hội theo hướng tích cực, tiến bộ... Các kết quả TĐT về việc làm và đặc trưng về việc làm của dân cư sẽ có ư nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng chiến lược, chính sách về lao động, việc làm, lập quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xă hội của tỉnh nói riêng và cả nước nói chung.

a) Lao động có việc làm theo tŕnh độ chuyên môn kỹ thuật

Lao động có việc làm đă được đào tạo chuyên môn kỹ thuật của tỉnh cao hơn toàn quốc 2 điểm phần trăm nhưng vẫn c̣n chiếm tỷ trọng nhỏ; trong đó, hơn một nửa đạt tŕnh độ cao đẳng, đại học và trên đại học.

Tỷ trọng lao động có việc làm được đào tạo CMKT chiếm 25,1%, cao hơn so với toàn quốc 2 điểm phần trăm nhưng thấp hơn vùng ĐBSH 6,7 điểm. Lao động có việc làm nhưng chưa qua đào tạo vẫn c̣n chiếm tỷ lệ rất lớn tới 74,9%, tức là khoảng 3/4 số lao động đang làm việc chưa được đào tạo tŕnh độ tay nghề. Tỷ trọng lao động có việc làm không có CMKT ở nông thôn cao gấp 1,3 lần ở thành thị (79,2% và 61,5%). Ở KVTT, số người có tŕnh độ từ đại học trở lên có việc là chiếm 18,1% tổng số lao động có việc làm của khu vực này, con số tương ứng của KVNT ở mức khiêm tốn, chỉ đạt 5,9%. Rơ ràng rằng, KVTT đă thu hút và tạo nhiều cơ hội việc làm hơn cho người có tŕnh độ CMKT.

 

 

Trong tổng số lao động có việc làm đă được đào tạo tŕnh độ chuyên môn, có 35,4% người đạt tŕnh độ từ đại học trở lên. Con số này ở khu vực thành thị cao gấp 1,64 lần ở khu vực nông thôn (47,0% so với 28,5%). Nghĩa là KVTT, cứ trong 10 người đang làm việc đă được đào tạo tay nghề th́ có khoảng 5 người được đào tạo đại học trở lên; trong khi đó, ở KVNT, con số này là khoảng 3 người.

b) Cơ cấu dân số có việc làm theo ngành kinh tế

Sự chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ tại Vĩnh Phúc theo hướng tăng tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ và giảm ở khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.

Kết quả TĐT cho thấy bức tranh rơ ràng về sự chuyển dịch cơ cấu lao động một cách tích cực trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn 2009 - 2019. Điều này thể hiện ở việc giảm tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản và tăng tỷ trọng lao động trong hai khu vực c̣n lại là công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Lao động trong ngành nông, lâm, nghiệp và thuỷ sản có sự giảm mạnh về tỷ trọng trong LLLĐ đang làm việc tại tỉnh, từ 59,96% năm 2009 xuống c̣n 30,58% năm 2019; lĩnh vực công nghiệp và xây dựng tăng 19,25 điểm phần trăm so với năm 2009 (từ 21,64% lên 40,89%); tỷ trọng lao động trong khu vực dịch vụ tăng từ 18,40% năm 2009 lên 28,53% năm 2019.

 

 

Riêng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, tỷ trọng lao động tăng tới trên 16 điểm phần trăm, từ 12,18% năm 2009 lên 28,91% năm 2019 với hàng chục khu công nghiệp mọc lên tại tỉnh, thu hút nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà xưởng và đi vào sản xuất các sản phẩm công nghiệp mang tính mũi nhọn và có chuỗi cung ứng toàn cầu như linh kiện điện tử, ô tô, xe máy, may mặc…, giải quyết việc làm cho hàng trăm ngh́n lao động.

 

 

Sự chuyển dịch cơ cấu lao động mạnh mẽ trên địa bàn tỉnh là phù hợp xu hướng chung của cả nước và đảm bảo mục tiêu xây dựng Vĩnh Phúc trở thành một tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại trong thời gian tới.

Tuy nhiên, trong tổng số 21 ngành kinh tế cấp 1, “Nông, lâm nghiệp và thủy sản” vẫn là ngành có tỷ trọng lao động lớn nhất; tiếp đến là ngành “Công nghiệp chế biến, chế tạo” và “Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác”, “Xây dựng” lần lượt chiếm tỷ trọng 28,91%; 12,01% và 11,28% trong LLLĐ có việc làm của tỉnh.

Tỷ trọng lao động nữ trong tổng số lao động có việc làm của tỉnh hiện là 49,75%. Kết quả TĐT cho thấy, sự phân hoá ngành nghề theo giới tính trở nên rơ ràng hơn, điều này thể hiện khá rơ trong xu hướng lựa chọn ngành nghề của người lao động trong năm 2019. Các ngành “Khai khoáng”, “Xây dựng”, “Vận tải kho băi” chủ yếu thu hút nam giới tham gia làm việc, nữ giới chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong các ngành này với tỷ lệ tương ứng là 2,55%; 11% và 6,7%. Ngược lại, các ngành “Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản”, “Giáo dục và đào tạo”, “Y tế và hoạt động trợ giúp xă hội”, “Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đ́nh” có lao động nữ tham gia đông đảo hơn, chiếm đa số trong các lĩnh vực này với tỷ trọng lần lượt là 61,16%; 79,2%; 61,80% và 99,12%.

c) Cơ cấu dân số có việc làm theo nghề nghiệp

Lao động có tŕnh độ kỹ năng thấp vẫn chiếm tỷ trọng cao, lao động nữ giữ vai tṛ lănh đạo chỉ chiếm trên 1/4 lao động có việc làm của tỉnh.

 

 

Theo kết quả TĐT ở biểu 9.4, nhóm nghề Lao động giản đơn vẫn chiếm tỷ lệ lao động cao với 34,2%, trong khi nhóm nghề Chuyên môn bậc cao và bậc trung chỉ chiếm 8,9% (thấp hơn toàn quốc 1,4 điểm phần trăm). Các nhóm nghề Dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng, Thợ thủ công và các thợ khác có liên quan và Thợ lắp ráp và vận hành máy móc thiết bị cũng thu hút một lực lượng khá lớn người lao động tham gia với tỷ lệ tương ứng là 15,2%, 18,3% và 21,2% tổng số lao động đang làm việc.

Trong 9 nhóm nghề, những người làm “Nhà lănh đạo” trong các ngành, các cấp và các đơn vị chiếm tỷ trọng thấp nhất 0,8%. Đa phần người làm Lănh đạo trong các ngành, các cấp và các địa phương đều là nam giới, nữ giới vẫn yếu thế hơn chỉ chiếm 26,4% tổng số lao động là “Nhà lănh đạo”. Tuy nhiên, tỷ lệ người nữ giữ vai tṛ là “Nhà lănh đạo” có sự cải thiện đáng kể sau 10 năm với việc tăng 5,8 điểm phần trăm so với năm 2009. Lao động nữ có tŕnh độ chuyên môn bậc cao cũng tăng từ 53,3% năm 2009 lên 57,6% năm 2019. Hai nhóm nghề nghiệp có tỷ lệ lao động nữ cao nhất Chuyên môn kỹ thuật bậc trung với 64,7% và Lao động giản đơn với 61,2% lao động là nữ.

d) Cơ cấu dân số có việc làm theo vị thế làm việc

Thị trường lao động của tỉnh đang có sự thay đổi tích cực khi tỷ trọng người lao động làm công ăn lương hiện ở mức khá cao, chiếm trên 45% tổng lao động có việc làm, cao hơn 2 điểm phần trăm so với mức chung của toàn quốc.

Vị thế việc làm của người lao động được chia thành năm nhóm: “Chủ cơ sở”, “Tự làm”, “Lao động gia đ́nh”, “Làm công ăn lương” và “Xă viên hợp tác xă”. Vĩnh Phúc là tỉnh đang có lực lượng lao động dồi dào, một lượng lớn lao động tự làm với năng suất lao động thấp đă chuyển sang khu vực làm công ăn lương với năng suất lao động cao hơn. Toàn tỉnh hiện có 45,3% lao động đang làm công việc hưởng tiền lương tiền công.

 

 

Số lao động “Tự làm” chiếm 38,1% tổng số lao động của tỉnh. “Lao động gia đ́nh” không được trả công trả lương chiếm 14,4%. Người làm chủ cơ sở và xă viên hợp tác xă chiếm tỷ trọng rất nhỏ, tương ứng 2,0% và 0,2% tổng số lao động có việc làm của tỉnh. Tỷ lệ lao động giữ vai tṛ chủ cơ sở và làm công hưởng lương là nam giới làm cao hơn nữ giới và ở thành thị cao hơn nông thôn. Xét theo vị thế việc làm của lao động th́ nam giới có vị thế việc làm cao hơn nữa giới và lao động ở thành thị có vị thế cao hơn nông thôn. Tỷ lệ nam giới trong nhóm “Chủ cơ sở” và “Làm công hưởng lương” cao hơn nữ giới 13,2 điểm. So với KVNT, lao động là chủ cơ sở ở KVTT cao gấp 4 lần và lao động làm công hưởng lương cao hơn 5,3 điểm phần trăm.

9.3. Thất nghiệp

Thất nghiệp là những người không có việc làm, có các hoạt động t́m kiếm việc làm và sẵn sàng làm việc ngay khi có cơ hội việc làm trong giai đoạn tham chiếu. T́nh trạng thất nghiệp là vấn đề kinh tế - xă hội phổ biến đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trên phạm vi một tỉnh, thành phố, thông tin về t́nh trạng thất nghiệp giúp đánh giá cung và cầu của thị trường lao động, đo lường mức độ sử dụng các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển để xây dựng, ban hành và điều chỉnh các chính sách về thu hút đầu tư và giải quyết việc làm. Nó không chỉ tác động tại chỗ đối với một địa phương mà có ảnh hưởng đến công tác lao động việc làm, xoá đói giảm nghèo và an sinh xă hội trên phạm vi toàn quốc.

a) Tỷ lệ thất nghiệp

Tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ Vĩnh Phúc ở mức thấp hơn trung b́nh cả nước và vùng ĐBSH. Tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ ở các địa phương trong tỉnh không đồng đều.

Vĩnh Phúc có tỷ lệ thất nghiệp của dân số từ 15 tuổi trở lên là 1,47%, thấp hơn 0,58 điểm so với cả nước và thấp hơn 0,4 điểm so với vùng ĐBSH. Đa số người dân đều phải t́m việc làm để nuôi sống bản thân và gia định cho dù đó là công việc không phù hợp về tŕnh độ hoặc có thu nhập thấp… V́ vậy, tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ ở tỉnh ở mức thấp. Tại tỉnh, tỷ lệ thất nghiệp của KVTT cao hơn KVNT và ở giới nam cao hơn giới nữ. Đây cũng là t́nh trạng chung của các địa phương trong cả nước. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch này là cơ hội tiếp cận thông tin về việc làm, tŕnh độ CMKT và khả năng lựa chọn công việc linh hoạt hơn của lao động nữ và lao động ở nông thôn. Người lao động ở nông thôn và là nữ giới dễ dàng chấp nhận có một công việc giản đơn, thu nhập thấp để có tiền trang trải phần nào cuộc sống hơn là không có việc làm, đồng nghĩa với việc không có nguồn thu cho bản thân và gia đ́nh.

 

 

H́nh 9.6 cho thấy, theo đơn vị hành chính cấp huyện, tỷ lệ thất nghiệp có sự khác biệt đáng kể với biên độ rộng nhất là 1,41 điểm phần trăm. Địa phương có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất là huyện B́nh Xuyên với 2,33%, thứ hai là Tam Đảo: 2,27%. Huyện Tam Dương có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất với 0,92% người trong LLLĐ không có việc làm. Bài toán đặt ra cho các nhà quản lư là phải có giải pháp hiệu quả để thu hút lao động, giải quyết việc làm tại chỗ ổn định cho đối tượng thất nghiệp và đối tượng thiếu việc làm của các huyện, thành phố trong tỉnh, hạn chế t́nh trạng người có tŕnh độ CMKT không t́m được việc làm tại quê nhà mà phải di cư, t́m việc làm ở địa phương khác.

 

 

Toàn tỉnh có 95,48% số người thất nghiệp hiện đang ở trong tuổi lao động. H́nh 9.7 minh họa kết quả TĐT cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi lao động của tỉnh là 1,58%, cao hơn tỷ lệ thất nghiệp chung 1,47% của dân số. Tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi lao động cao hơn tỷ lệ thất nghiệp chung xét trên phạm vi toàn tỉnh và ở cả khu vực thành thị - nông thôn.

Như vậy, trong khi có một lực lượng không nhỏ người trên tuổi lao động của tỉnh đang tham gia vào các hoạt động kinh tế th́ lại có nhiều người ở độ tuổi từ 15-60 không t́m được việc làm, họ đang mong muốn t́m được công việc phù hợp để ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thâm và gia đ́nh. Các chính sách về lao động việc làm của tỉnh nói riêng và Chính phủ nói chung trong thời gian tới cần quan tâm giải quyết vấn đề này, đảm bảo thu hút và giải quyết việc làm cho đông đảo LLLĐ có tŕnh độ, có sức khoẻ tham gia vào các hoạt động thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xă hội của tỉnh và cả nước.

b) Cơ cấu dân số của lao động thất nghiệp

Người thất nghiệp của tỉnh phổ biến ở độ tuổi trẻ và người có tŕnh độ từ cao đẳng trở lên chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng số người thất nghiệp.

Người thất nghiệp có độ tuổi từ 15-54 chiếm đa số trong tổng số người không có việc làm của tỉnh với 92,7%. Tỷ lệ này cao hơn mức chung của toàn quốc 01 điểm phần trăm; có nghĩa là lao động thất nghiệp của tỉnh có độ tuổi trẻ hơn so với độ tuổi của lao động thất nghiệp trên phạm vi cả nước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi 15-54 ở nam giới thấp hơn so với ở nữ giới (tương ứng là 92,5% và 93,1%).

Lực lượng thanh niên từ 15-24 tuổi thất nghiệp chiếm 40,3% tổng số người thất nghiệp cả tỉnh. Đây là đối tượng lao động có cơ hội được đào tạo tŕnh độ học vấn và CMKT hơn các thế hệ trước đó nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống và lao động. Đồng thời, họ khắt khe hơn trong việc chấp nhận một công việc mang tính thời vụ hoặc không phù hợp nhu cầu của bản thân, họ cũng dễ dàng từ bỏ việc làm hiện có để t́m kiếm công việc khác phù hợp hơn… V́ vậy, tỷ lệ thất nghiệp của người lao động độ tuổi này thường chiếm tỷ lệ cao. Tỷ lệ người ở độ tuổi 15-24 sống tại thành thị thất nghiệp thấp hơn nông thôn, của giới nam thấp hơn giới nữ.

Lao động nữ không có việc làm ít hơn nam giới, chiếm 45,2% tổng số người thất nghiệp của tỉnh. Lao động nữ trong độ tuổi 15-24 ở KVTT thất nghiệp chiếm 51,9%; cao hơn KVNT tới 8,6 điểm phần trăm. Như vậy, cơ hội có việc làm của nữ thanh niên sống ở thành thị thấp hơn so với nữ thanh niên sống ở nông thôn.

 

 

 

Theo kết quả TĐT, người có tŕnh độ học vấn cao nhất là tốt nghiệp THPT bị thất nghiệp chiếm tỷ lệ rất cao, chiếm 34,5% tổng số người thất nghiệp của tỉnh, tức là hơn 1/3 lao động hiện không có việc làm của tỉnh có tŕnh độ cao nhất đạt được là tốt nghiệp THPT. Người thất nghiệp có tŕnh độ từ cao đẳng trở lên chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lao động thất nghiệp (13,8%), trong khi người thất nghiệp có tŕnh độ thấp hơn (sơ cấp, trung cấp) chiếm tỷ trọng thấp hơn rất nhiều, chỉ 5,5%.

Như vậy, lao động có tŕnh độ cao lại có xu hướng không có việc làm nhiều hơn lao động tŕnh độ thấp. Nguyên nhân là do nhóm lao động có tŕnh độ chuyên môn thấp thường sẵn sàng làm các công việc giản đơn với mức lương thấp và không đ̣i hỏi tay nghề cao, trong khi những người có tŕnh độ học vấn cao lại cố gắng t́m kiếm công việc với mức thu nhập và điều kiện làm việc phù hợp hơn; nhóm lao động có tŕnh độ cao thường yêu cầu mức thu nhập cao hơn nhóm lao động tŕnh độ thấp. Bên cạnh đó, chính sách tuyển dụng nhân công của chủ sử dụng lao động cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tỷ lệ này, các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động hiện nay (sản xuất sản phẩm may mặc, giày da, linh kiện điện tử…) trên địa bàn hiện tuyển dụng nhân công có tŕnh độ phổ thông là chủ yếu, chế độ đăi ngộ của doanh nghiệp đối với lao động có tŕnh độ thấp cũng đơn giản hơn lao động tŕnh độ cao.

Xét theo giới tính, lao động nữ chưa qua đào tạo/đi học và có tŕnh độ cao nhất đă đạt được từ cao đẳng trở lên thất nghiệp nhiều hơn nam giới, ở các tŕnh độ c̣n lại, người nam thất nghiệp nhiều hơn người nữ.